PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP HỢP ĐỒNG BỊ TUYÊN VÔ HIỆU

Như bài viết trước đã đề cập cụ thể về các trường hợp mà hợp đồng bị tuyên vô hiệu theo quy định tại bộ luật dân sự 2015 thì nếu không chú ý về tính hợp pháp của hình thức và nội dung, hợp đồng có thể rất dễ xảy ra việc bị tuyên bố vô hiệu.  Thế nên, bài viết này sẽ tập trung vào việc phân tích những kiến thức để giúp cho các bên có những phương án giải quyết khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu để đảm bảo đúng luật và giảm thiểu tối đa nhất thiệt hại cho các bên.

 

1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật dân sự 2015

– Luật hôn nhân và gia đình 2014

– Nghị định 37/2015/NĐ-CP hướng dẫn về hợp đồng xây dựng

– Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình do Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành

– Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình do Hội đồng Thẩm phán – Toà án nhân dân tối cao ban

2. Nội dung

2.1. Những quy định chung về hậu quả pháp lý của hợp đồng bị tuyên vô hiệu

Về việc xử lý hợp đồng bị tuyên vô hiệu thì tại điều điều 131 của bộ luật dân sự 2015 như sau:

Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

  1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
  2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

  1. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
  2. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
  3. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

Như vậy, bộ luật dân sự cũng đã đưa ra phương hướng giải quyết trong trường hợp hợp đồng bị tuyên vô hiệu. Đó là, các bên sẽ trả cho nhau những gì đã nhận.

Ví dụ: Trong trường hợp mua bán xe cổ bị tuyên vô hiệu do nhầm lẫn thì bên bán xe sẽ trả lại tiền, còn bên mua xe sẽ trả lại xe.

Tuy nhiên, thực tế không phải lúc nào các bên cũng có thể trao trả được cho nhau những gì đã nhận. ví dụ: trong hợp đồng mua bán nhà ở hoặc xây dựng là hai lĩnh vực tiêu biểu của việc này.

Tại điều 129 của bộ luật dân sự 2015 đã được liệt kê ở mục 2.2 thì nếu hợp đồng đã được thực hiện hai phần ba. Ví dụ: A ký hợp đồng mua đất của công ty B, trong đó có điều khoản hai bên sẽ tiến hành thanh toán trong vòng 3 lần. Nếu A đã tiến hành thanh toán tới 80% giá trị của hợp đồng. Thì cho dù chưa có được công chứng thì hợp đồng cũng sẽ được tiếp tục thực hiện.

Quy định này cũng phần nào thể hiện ý chí của người làm luật rằng hợp đồng là thỏa thuận giữa hai bên, việc công chứng phần nào đảm bảo cho quá trình thực hiện hợp đồng của các bên mà thôi.

2.2. Giải quyết hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất bị tuyên vô hiệu:

Ngoài ra, tại mục II. Khoản 2.3 của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình do Hội đồng Thẩm phán – Toà án nhân dân tối cao ban hành quy định như sau:

  • VỀ THỪA KẾ, TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau ngày 15/10/1993

b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.

b.3) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố… và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và hủy phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.

c) Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

c.2) Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình”

c.3) Xác định thiệt hại.

– Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:

Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm hủy hoại đất; khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm… trên đất. Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.

– Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:

Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Ủy ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

– Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử.

Như vậy, các bên sẽ hoàn toàn yên tâm về quyền lợi của mình sẽ được đảm bảo phần nào với chính sách áp dụng giá đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

2.3. Giải quyết hợp đồng liên quan đến tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở bị tuyên vô hiệu

Quy định về hợp đồng nhà ở cũng tương tự như vậy tại Mục I- khoản 2 – điểm C của

Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình do Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành.

  • ĐỐI VỚI CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
  1. Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở

c.1. Khi tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:

Khoản tiền mà bên bán phải bỏ ra để sửa chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu của nhà ở do bên mua đã tháo dỡ hoặc làm hư hỏng; khoản tiền mà bên mua đã đầu tư để cải tạo, sửa chữa nhà làm tăng giá trị nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất. Trong trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở không có đặt cọc và các bên không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 BLDS để bảo đảm thực hiện hợp đồng, thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giữa giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.

c.2. Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về nhà ở như sau:

Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá nhà, giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá nhà và giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi có nhà đất đang tranh chấp đối với từng loại nhà, đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

Như vậy lợi ích của các bên cũng sẽ được đảm bảo đền bù phần nào nhờ quy định trên.

2.4. Giải quyết hợp đồng liên quan đến tranh chấp hợp đồng có đặt cọc bị tuyên vô hiệu

Một vấn đề nữa mà các bên hết sức quan tâm đó là các hợp đồng mà có quy định về đặt cọc thì được quy định tại mục I – khoản 1 của nghị quyết số 01/2003/nq-hđtp của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao số 01/2003/nq-hđtp ngày 16 tháng 4 năm 2003 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình có quy định về điều này:

  1. ĐỐI VỚI CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
  2. Tranh chấp hợp đồng dân sự có đặt cọc

Theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Dân sự (sau đây viết tắt là BLDS) thì thoả thuận về đặt cọc là một giao dịch dân sự; do đó, việc đặt cọc chỉ có hiệu lực khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 131 BLDS và phải được lập thành văn bản (có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính).

Trong trường hợp có tranh chấp về đặt cọc mà các bên không có thoả thuận khác về việc xử lý đặt cọc, thì việc xử lý được thực hiện như sau:

  1. Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng hoặc chỉ để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng hoặc vừa để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng vừa để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng thì bên nào có lỗi làm cho hợp đồng không được giao kết hoặc không được thực hiện hoặc bị vô hiệu, thì phải chịu phạt cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 363 BLDS.
  2. Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng mới có sự vi phạm làm cho hợp đồng không được thực hiện hoặc mới phát hiện hợp đồng bị vô hiệu thì không phạt cọc. Việc giải quyết tranh chấp về vi phạm hợp đồng hoặc xử lý hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo thủ tục chung.
  3. Trong trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định điều kiện nếu đặt cọc bị vô hiệu là hợp đồng cũng bị vô hiệu, thì hợp đồng đương nhiên bị vô hiệu khi đặt cọc đó bị vô hiệu. Việc xử lý đặt cọc bị vô hiệu và hợp đồng bị vô hiệu được thực hiện theo quy định tại Điều 146 BLDS.

Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng mua bán nhà. Khi giao kết hai bên thoả thuận B (bên mua) phải giao cho A (bên bán) một chiếc xe ô tô thể thao để đặt cọc bảo đảm cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán nhà ở với điều kiện khi hợp đồng mua bán nhà ở được giao kết và thực hiện thì chiếc xe ô tô thể thao đó phải được trừ vào tiền mua bán nhà và nếu A không nhận được chiếc xe ô tô đó do việc đặt cọc bị vô hiệu thì hợp đồng cũng bị vô hiệu.

Khi bắt đầu thực hiện hợp đồng thì phát hiện chiếc xe ô tô đó là của ông C (bố B) và ông C không đồng ý cho B lấy chiếc xe ô tô đó trừ vào tiền mua nhà, có nghĩa là việc đặt cọc bị vô hiệu và do đó trong trường hợp này hợp đồng mua bán nhà cũng bị vô hiệu.

  1. Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và c mục 1 này, nếu cả hai bên cùng có lỗi hoặc trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì không phạt cọc.

http://www.luatsuadong.vn/chi-tiet-tin/1305-rui-ro-lon-nhat-ve-hop-dong-xay-dung-la-tinh-hieu-luc-cua-hop-dong.html

2.5. Giải quyết trường hợp mà hợp đồng xây dựng bị tuyên vô hiệu

Hợp đồng xây dựng là một trong những loại hợp đồng phức tạp nhất trong các loại hợp đồng. Kể cả về nội dung, hình thức, cơ quan quản lý cho đến giải quyết hậu quả pháp lý sau khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu. Thế nên, tai điều tại điểm c khoản 1 Điều 6 Nghị định 37/2015/NĐ-CP quy định về Hiệu lực và tính pháp lý của hợp đồng xây dựng như sau:

Điều 6. Hiệu lực và tính pháp lý của hợp đồng xây dựng

1. Hợp đồng xây dựng có hiệu lực pháp lý khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

a) Người tham gia ký kết có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;

b) Đáp ứng các nguyên tắc ký kết hợp đồng quy định tại Điều 4 Nghị định này;

c) Hình thức hợp đồng bằng văn bản và được ký kết bởi người đại diện đúng thẩm quyền theo pháp luật của các bên tham gia hợp đồng. Trường hợp một bên tham gia hợp đồng là tổ chức thì bên đó phải ký tên, đóng dấu theo quy định của pháp luật.

2. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng xây dựng là thời điểm ký kết hợp đồng(đóng dấu nếu có) hoặc thời điểm cụ thể khác do các bên thỏa thuậntrong hợp đồng xây dựng và bên giao thầu đã nhận được bảo đảm thực hiện hợp đồng của bên nhận thầu (đối với hợp đồng có quy định về bảo đảm thực hiện hợp đồng).

Dù đã quy định rất rõ ràng là như vậy nhưng vẫn xuất hiện trường hợp hai bên khi tham gia giao kết đã không tuân thủ các quy định trên, dễ dẫn đến tranh chấp yêu cầu tuyên vô hiệu. Thậm chí có cả trường hợp các bên tự thỏa thuận bằng lời nói với nhau, khi một bên còn lại lật lọng thì gây hậu quả lớn cho bên bị lật lọng. Ví dụ: thỏa thuận bằng lời nói là trả bằng tiền công hàng ngày nhưng khi bàn giao nhà thì lại đòi được trả dựa trên m2.

Nếu như đối với các loại hợp đồng khác thì việc hai bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu có thiệt hại thì bên gây thiệt hại sẽ bồi thường thì rất dễ để xử lý.
Nhưng trong xây dựng, sự hoàn trả là rất khó khăn, sẽ gây lãng phí nghiệm trọng về vật chất.

Ví dụ: A muốn xây căn nhà để làm kho và ký hợp đồng với B, giá trị của hợp đồng là 1 tỷ đồng. Khi đã xây được khoảng 1/3 công trình thì bên nhà thầu báo giá vật tư trên thị trường thay đổi nên cần phải tăng gia thi công lên gấp rưỡi trong lần thanh toán tiếp theo, sau khi đã hoàn thành 80% công trình. Tuy nhiên, A đã không đồng ý, B lấy lý do A không thiện chí nên đã yêu cầu tòa án tuyên vô hiệu.

Giả sử, tòa án đồng ý cho tuyên hợp đồng này vô hiệu thì việc hoàn trả cho nhau nhưng gì đã nhận sẽ gây ra thiệt hại, lãng phí nguồn tài nguyên. Trừ trường hợp có một bên có lợi như được làm với đối tác khác với giá cao hơn, nếu đập đi công trình thì làm mất thời gian và chi phí cho cả hai bên. Bên A thì mất thời gian và phải ký hợp đồng với giá cao hơn với bên khác, do vật giá lúc đó đã cao hơn. Bên B thì sẽ phải trả lại hết tiền cho bên A nên sẽ bị mất chi phí mà họ đã phải trả cho nhân viên của họ.

Thậm chí có cả trường hợp các bên hiểu rõ về việc hợp đồng sẽ bị tuyên vô hiệu khi nào nhằm có thể yêu cầu tuyên vô hiệu dễ dàng khi tìm được một bên thứ ba mang lại lợi ich cho mình nhiều hơn. Ví dụ: nhà thầu tìm được chủ đầu tư trả giá gấp rưỡi cho mình nên đã yêu cầu tuyên vô hiệu. Bên không mong muốn bị tuyên vô hiệu sẽ bị thiệt hại về vật chất cũng như thời gian của mình.

Hiện nay, chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể về việc xử lý các trường hợp mà hợp đồng xây dựng bị tuyên vô hiệu, nên thông thường các thẩm phán sẽ dựa vào quy định tại điều 131 của bộ luật dân sự 2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

  1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
  2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

Thế nên, hiện tại các bên vẫn phải làm thủ tục giao lại công trình, bên nhận giao lại sẽ được hoàn trả toàn bộ số tiền. Bên nào là nguyên nhân dẫn đến hợp đồng bị tuyên vô hiệu sẽ phải bồi thường thiệt hại. Còn việc có đập và tháo dỡ công trình hay không thì tùy vào từng trường hợp. Trên thực tế thì  sẽ không có chuyện đập và tháo dỡ nếu bên bị tháo dỡ vẫn giữ nguyên thiết kế ban đầu. Họ sẽ thuê một nhà thầu khác để làm chuyện này.

 

2.6. Những lưu ý khi tham gia giao kết hợp đồng để tránh việc hợp đồng bị tuyên vô hiệu

Từ những phân tích trên, chúng tôi có những lời khuyên để giúp cho hợp đồng không bị tuyên vô hiệu như sau:

– Bất cứ tham gia ký kết một hợp đồng nào thì các bên cũng cần phải lập thành văn bản vì lời nói gió bay, có văn bản thì hai bên sẽ không thể thay đổi tùy tiện nội dung đã thỏa thuận.

– Phải tham khảo ý kiến của luật sư hoặc chuyên gia pháp lý trong lĩnh vực mà mình tham gia giáo kết để đưa vào những điều khoản có lợi của mình, tránh bị đối tác gài bẫy bằng các điều khoản không trung thực, thiện chí, tránh vi phạm về hình thức dẫn đến bị tuyên vô hiệu. Hợp đồng nào cần công chứng thì phải công chứng.

– Phải có thỏa thuận rõ ràng về tất cả các nội dung trong hợp đồng như về thời gian thanh toán, số tiền thanh toán, thời điểm có hiệu lực, thời điểm bàn giao, điều khoản về ổn định giá cả và cả chọn phương thức giải quyết tranh chấp qua hòa giải viên hoặc trọng tài thương mại thay vì tòa án, theo thông lệ của quốc tế.

– Trong quá trình tham gia ký kết, phải để ý xem, người của công ty mình và đối tác có đầy đủ thẩm quyền để tham gia ký kết hay không. Điều này là bắt buộc.

– Trong quá trình thực hiện hợp đồng cần phải kiên định, trung thực và thiện chí, không nên vì lợi ích của bản thân mà gây thiệt hại cho đối tác.

Trên đây là bài viết về điều khoản về phương án xử lý khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, cũng như một số tư vấn để tránh trường hợp dẫn đến hợp đồng bị tuyên vô hiệu khi tham gia ký kết hợp đồng. Cảm ơn quý khách đã tham khảo, Luật Minh Mẫn luôn sẵn sàng tư vấn và thực hiện tư vấn, soạn thảo, dịch và tham gia ký kết hợp đồng cho khách hàng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CÁC TRƯỜNG HỢP HỢP ĐỒNG BỊ TUYÊN VÔ HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật dân sự 2015

– Luật hôn nhân và gia đình 2014

– Luật nhà ở 2014

2. Nội dung

Ngoài những quy định chung thì bộ luật dân sự 2015 cũng quy định những trường hợp riêng biệt mà hợp đồng có thể bị tuyên vô hiệu như sau:

– Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội tại điều 123:

Điều 123. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.

Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

Ví dụ: A và B ký hợp đồng để mua bán con của A với giá 20 triệu thì đây là hợp đồng trái đạo đức xã hội, A ký hợp đồng mua bán trái phép 20kg ma túy của B với giá 200 triệu thì đây là hợp đồng vi phạm điều cấm của luật.

 

– Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo tại điều 124:

Điều 124. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

  1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
  2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

Ví dụ: A và B kí kết hợp đồng mua bán nhà có giá trị 1 tỷ đồng nhưng để tránh nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ khác liên quan thì các bên đã viết một hợp đồng tặng cho giả tạo.

Như vậy, hợp đồng tặng cho sẽ bị tuyên vô hiệu, còn hợp đồng mua bán sẽ có hiệu lực. Vì cả hai lập hợp đồng để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba là cơ quan thuế.

 

Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện tại điều 125:

Điều 125. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

  1. Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
  2. Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:
  3. a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
  4. b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
  5. c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Ví dụ: A mới 16 tuổi có để dành dụm tiền bị B dụ mua đất của mình và bán với giá đất. A ký kết với B mà không có sự đồng ý của bố mẹ bằng văn bản. Như vậy, giao dịch này sẽ bị tuyên vô hiệu dựa vào quy định tại Điều 77 Luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

Điều 77. Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự

  1. Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.

– Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn tại điều 126:

Điều 126. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

  1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
  2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

Ví dụ: A được cha là B cho chiếc xe cổ từ thập niên 80 ở nước ngoài, C thích sưu tập đồ cổ nên đã trả giá để mua được chiếc xe đó. Tuy nhiên, khi C đem về nhà, được bố dẫn chứng là chiếc xe này không phải ở nước ngoài. Thậm chí A cũng không biết điều này nên giao dịch của hai người có thể bị tuyên vô hiệu do nhầm lẫn.

 

Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép tại điều 127:

Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

Ví dụ: A ký kết hợp đồng mua bán nha cho B, theo đó A sẽ bán nhà cho B. Tuy nhiên, tại thời điểm ký kết hợp đồng thì căn nhà này đã có quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù và A đã biết nhưng lại không thông báo cho B. Như vậy ở đây A đã có sự gian dối về tình trạng thông tin ngôi nhà – đối tượng của hợp đồng mua bán cho người mua là B. Theo đó,  B có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

 

Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình tại điều 128:

Điều 128. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Ví dụ: Lợi dụng lúc A đang bị say, B đã kêu A ký hợp đồng vay 100 triệu với lãi suất 10% mỗi tháng. Như vậy, giao dịch này sẽ bị tuyên vô hiệu do A ký hợp đồng vào lúc không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức tại điều 129:

Điều 129. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

  1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
  2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Ví dụ: theo quy định tại Điều 122 về Công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở của luật nhà ở 2014 như sau:

Điều 122. Công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở

  1. Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Như vậy, các bên khi tham gia giao dịch cần phải trên nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, trung thực để tránh khi xảy ra tranh chấp thì hợp đồng bị tuyên vô hiệu, làm các bên mất thời gian của nhau, tổn thất về mặt kinh tế. Ngoài ra còn phải lưu ý tránh để hợp đồng rơi vào các trường hợp bị tuyên vô hiệu như ở trên. Về phương án giải quyết trong trường hợp mà hợp đồng bị tuyên vô hiệu sẽ có ở bài viết tiếp theo.

Trên đây là bài viết về điều khoản về những trường hợp cụ thể mà hợp đồng sẽ bị tuyên vô hiệu, theo quy định của bộ luật dân sự 2015. Cảm ơn quý khách đã tham khảo, Luật Minh Mẫn luôn sẵn sàng tư vấn và thực hiện tư vấn, soạn thảo, dịch và tham gia ký kết hợp đồng cho khách hàng.

Phương án giải quyết trong trường hợp mà hợp đồng bị tuyên vô hiệu:

https://luatsuhopdong.com/phuong-an-giai-q…bi-tuyen-vo-hieu.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

Khi tham gia giao kết hợp đồng, các bên đều mong muốn đạt được mục đích giao kết của mình. Tuy nhiên, do chưa hiểu biết tường tận những quy định của pháp luật, cộng với một số trường hợp trá hình trong giao dịch mà các hợp đồng khi xảy ra tranh chấp sẽ bị tuyên vô hiệu bởi tòa án. Bài viết này nhằm cung cấp những kiến thức lý thuyết và thực tế trong trường hợp hợp đồng bị tuyên vô hiệu và cách xử lý chúng.

1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật dân sự 2015

2. Nội dung

Theo quy định tại điều 122 của bộ luật dân sự 2015 thì giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại điều 117 của bộ luật. Ở khoản 2 của điều 117 có quy định về việc hợp đồng phải đáp ứng điều kiện về mặt hình thức của điều 119 như sau:

Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự

  1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

  1. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

Khi tuyên một hợp đồng vô hiệu thì cũng được phân thành hợp đồng vô hiệu toàn phần và vô hiệu từng phần. Về việc vô hiệu toàn phần thì chúng ta đã có thể xác định là toàn phần của hợp đồng đó không có hiệu lực, còn về thế nào là hợp đồng vô hiệu từng phần thì đã có quy định tại điều 130 của bộ luật dân sự như sau:

Điều 130. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần

Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.

Ví dụ: A ký hợp đồng vay 100 triệu của B, thời hạn vay là 3 năm. Trả mỗi tháng một lần, kèm theo lãi suất là 10% một tháng. Thì nếu A kiện ra tòa, Tòa sẽ tuyên hợp đồng vay của A và B sẽ bị vô hiệu ở phần lãi suất do theo quy định tại điều 468 về lãi suất của bộ luật dân sự thì không được vượt quá 20%/một năm tức, khoảng chưa tới 2% mỗi tháng.

Như vậy, một hợp đồng có thể bị tuyên vô hiệu do vi phạm về nội dung và hình thức theo luật định hoặc bị tuyên vô hiệu toàn phần hay từng phần.

Trên đây là bài viết về những quy định chung về hợp đồng vô hiệu giúp cho khách hàng có thể hiểu rõ một cách tổng quát về các việc thế nào là một hợp đồng vô hiệu. Những bài viết sau sẽ cung cấp cho quý khách những phân tích chi tiết liên quan đến chủ đề này. Cảm ơn quý khách đã tham khảo, Luật Minh Mẫn luôn sẵn sàng tư vấn và thực hiện tư vấn, soạn thảo, dịch và tham gia ký kết hợp đồng cho khách hàng.

Bài viết tiếp theo về các trường hợp mà hợp đồng bị tuyên vô hiệu theo bộ luật dân sự 2015:

https://luatsuhopdong.com/cac-truong-hop-hop-dong-bi-tuyen-vo-hieu-theo-quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-2015.html