Giám đốc hay đại diện theo pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp đồng?

Thẩm quyền ký kết Hợp đồng là một trong những điều kiện tiên quyết để một Hợp đồng có hiệu lực pháp luật. Hôm nay, Hãng Luật Minh Mẫn cung cấp một số thông tin pháp lý quan trọng để xác định Giám đốc hay người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thẩm quyền ký kết Hợp đồng.

Giám đốc hay đại diện theo pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp đồng?
Giám đốc hay đại diện theo pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp đồng?

Tầm quan trọng của việc xác định ai có thẩm quyền ký kết hợp đồng.

Theo quy định tại Điều 142, BLDS 2015:

“Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụđối với người được đại diện (trừ một số trường hợp khác do pháp luật quy định).

Theo đó, các quyền và nghĩa vụ đã được các bên cam kết thực hiện trong Hợp đồng không được thi theo quy định trên.

Ví dụ: Công ty A (Bên bán) – Công ty B (Bên mua) ký kết Hợp đồng mua bán hàng hóa. Người đại diện của công ty A trong Hợp đồng không có quyền ký kết Hợp đồng.

Hợp đồng quy định: trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày ký kết Hợp đồng Công ty A có nghĩa vụ giao hàng cho Công ty B (Công ty B đã ký kết Hợp đồng mua bán hàng hóa để bán hàng hóa cho công ty C sau khi nhận được hàng từ Công ty A). Sau 10 ngày làm việc, vì một lý do nào đó mà giá cả của hàng hóa tăng đột biến (ví dụ như giá khẩu trang trong đại dịch Coronavirus), Công ty A không giao hàng theo đúng nghĩa vụ trong Hợp đồng với lý do người đại diện ký kết Hợp đồng không đúng nên không làm phát sinh nghĩa vụ của công ty A. Công ty B không có hàng hóa để giao cho Công ty C.

Đại diện theo pháp luật là ai?

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, và nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. (Khoản 1, Điều 13, Luật Doanh nghiệp 2014).

Căn cứ theo quy định trên, người đại diện theo pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch (Hợp đồng) có nghĩa là Hợp đồng đã được xác lập trước khi người đại diện theo pháp luật có quyền.

Như vậy, người đại diện theo pháp luật không có quyền đại diện xác lập Hợp đồng.

Giám đốc là ai và quyền của giám đốc như thế nào?

Giám đốc là ai?

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao động ký với công ty và nghị quyết của Hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần); chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên (đối với công ty TNHH 2 thành viên trở lên); chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty (đối với công ty TNHH 1 thành viên).

Quyền của Giám đốc về việc xác lập giao dịch/Hợp đồng.

Theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 64, Luật Doanh nghiệp 2014, giám đốc có quyền ký kết Hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên (Công ty TNHH 2 thành viên trở lên).

Theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 81, Luật Doanh nghiệp 2014, giám đốc có quyền ký kết Hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty (Công ty TNHH 1 thành viên).

Theo quy định tại điểm a, e; Khoản 3, Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2014, giám đốc có quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của Hội đồng quản trị; quyền được tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty.

Dựa vào các quy định trên, giám đốc có quyền ký kết/xác lập Hợp đồng thay vì người đại diện theo pháp luật.

Vậy tại sao chúng ta hay thấy nhiều Hợp đồng được người đại diện theo pháp luật ký kết mà Hợp đồng không vô hiệu?

Giải đáp thắc mắc này, Hãng Luật Minh Mẫn cung cấp một số trường hợp như sau:

  1. Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép doanh nghiệp được phép chọn ai là đại diện theo pháp luật (trừ những trường hợp cấm theo quy định); vì vậy nhiều doanh nghiệp đã chọn Giám đốc là người đại diện theo pháp luật.

Trong trường hợp này, Hợp đồng không vô hiệu là người xác lập Hợp đồng là giám đốc, đồng thời là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

  1. Người được đại diện đã công nhận giao dịch (Khoản 1, Điều 142, BLDS 2015);

Đối với Hợp đồng mà giám đốc có quyền ký kết/xác lập; giám đốc đã công nhận giao dịch do người đại diện theo pháp luật ký kết.

  1. Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý (Khoản 1, Điều 142, BLDS 2015).

Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng, giám đốc là người có quyền ký kết/xác lập Hợp đồng đã không phản đối.

  1. Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện. (Khoản 1, Điều 142, BLDS 2015).

Giám đốc là người có quyền ký kết/xác lập Hợp đồng đã có lỗi dẫn đến việc bên còn lại trong Hợp đồng không biết và không thể biết về việc người đại diện theo pháp luật đã xác lập với mình là không có thẩm quyền.

  1. Đối với Hợp đồng lao động, người đại diện theo pháp luật là người đại diện nhân danh công ty ký kết Hợp đồng lao động với người lao đồng, thay vì là giám đốc theo quy định của pháp luật lao đồng. Cụ thể tại khoản 1, Điều 3, Nghị định 05/2015/NĐ-CP; khoản 1, Điều 1, Nghị định 148/2018/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định như sau:

“Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người sử dụng lao động là người thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Người đại diện theo pháp luật quy định tại điều lệ của doanh nghiệp, hợp tác xã;

…”

Hãng Luật Minh Mẫn hi vọng với một số thông tin pháp lý quan trọng về thẩm quyền ký kết Hợp đồng trên có thể giúp doanh nghiệp hạn chế tối đa những rủi ro không đáng có trong quá trình các bên bên xác lập và thực hiện Hợp đồng.

Huỳnh Điều

Ghi USD trong hợp đồng được không?

Các chính sách, quy định pháp luật Việt Nam đang dần “nới lỏng” đối với nhà đầu tư nước ngoài cùng với xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu đã thúc đẩy, gia tăng các giao dịch có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Đồng thời theo các thống kê, nền kinh tế Mỹ đứng đầu thế giới, tỷ lệ lạm phát ở Mỹ khá thấp nên có thêm lý do để các bên có nhu cầu cao trong việc sử dụng USD trong nhiều giao dịch nhằm hạn chế “thất thoát”.

Ghi USD trong hợp đồng được không?
Ghi USD trong hợp đồng được không?

Vậy việc sử dụng USD trong Hợp đồng có vi phạm pháp luật không?

Theo quy định tại Điều 22, Pháp lệnh ngoại hối 2005; Khoản 13, Pháp lệnh ngoại hối 2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ngoại hối 2013:

Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.”

Dựa theo quy định trên thì việc sử dụng USD trong mọi giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam là vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Các hình thức sử dụng USD bị cấm theo quy định trên:

+ Thanh toán: ghi giá là Đồng Việt Nam nhưng thanh toán bằng USD là vi phạm.

+ Niêm yết: là việc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thông báo công khai bằng các hình thức thích hợp, rõ ràng và không gây nhầm lẫn cho khách hàng về mức giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bằng Đồng Việt Nam bằng cách in, dán, ghi giá trên bảng, trên giấy hoặc trên bao bì của hàng hóa hoặc bằng hình thức khác tại nơi giao dịch hoặc nơi chào bán hàng hóa, dịch vụ để thuận tiện cho việc quan sát, nhận biết của khách hàng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Khoản 6, Điều 4, Luật giá 2012).

Ngoài quy định cấm tại Pháp lệnh ngoại hối thì theo quy định tại Điều 18, Nghị định 117/2013/NĐ-CP yêu cầu Đồng tiền niêm yết giá là Đồng Việt Nam”.

+ Quảng cáo: là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân.

+ Báo giá: báo giá qua email, tin nhắn điện thoại hay thông qua mạng xã hội hoặc bất kỳ hình thức nào khác đều vi phạm.

+ Định giá: là việc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ.

+ Ghi giá

+ Thỏa thuận và các hình thức tương tự khác: ghi giá bằng Đồng Việt Nam, ghi tương đương USD là vi phạm điều này.

Pháp luật cấm nhưng nếu sử dụng USD thì có hậu quả/chế tài không?

+ Chế tài dân sự: Giao dịch sử dụng USD giữa các bên bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật theo quy định tại Điều 128, BLDS 2005. Nguyên tắc khi giao dịch vô hiệu, các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận, bồi thường (nếu có).

Giao dịch sử dụng USD giữa các bên không bị vô hiệu nếu căn cứ theo Điều 123, BLDS 2015. BLDS 2015 đã điều chỉnh giao dịch bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật thay vì vi phạm điều cấm của pháp luật. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 4, Luật ban hành xây dựng văn bản pháp luật 2015 thì Pháp lệnh không phải là Luật.Vì vậy, các bên giao dịch sử dụng USD giữa các bên không bị vô hiệu.

+ Chế tài hành chính:  Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đối với cá nhân; phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng theo quy định tại Điểm b, Khoản 3, Điều 3 và Điểm n, Khoản 4, Điều 23, Nghị định 88/2019/NĐ-CP.

Như vậy theo quy định mới của BLDS 2015, giao dịch sử dụng USD không bị vô hiệu nhưng các bên sẽ bị phạt hành chính với số tiền tối đa là 100.000.000 đồng theo quy định tại Nghị định 88/2019/NĐ-CP.

Huỳnh Điều

Quy định về phạt vi phạm hợp đồng

Thông thường, khi soạn thảo hợp đồng chúng ta không thể bỏ sót điều khoản quy định về phạt vi phạm hợp đồng. Đây là điều khoản quan trọng để đảm bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên.

Căn cứ pháp lý:

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Luật Thương mại năm 2005;
  • Luật Xây dựng năm 2014;
  • Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
Quy định về phạt vi phạm hợp đồng
Quy định về phạt vi phạm hợp đồng

Phạt vi phạm là gì?

  • Khái niệm

Căn cứ Khoản 1 Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”.

Theo Điều 300 Luật Thương mại 2005: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này”.

Như vậy, phạt vi phạm không phải là điều khoản đương nhiên được công nhận trừ khi được hai bên thỏa thuận. Nếu không được thỏa thuận rõ ràng về việc phạt vi phạm thì khi một bên vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm sẽ không được nhận số tiền bị vi phạm. Phạt vi phạm là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, biện pháp ngăn ngừa hành vi vi phạm và một phần nào đó là biện pháp khắc phục hậu quả, bù đắp thiệt hại

  • Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại

Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.

Khi nào bị phạt do vi phạm

Điều kiện phạt vi phạm

Khi có thỏa thuận phạt vi phạm và có hành vi vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm. Thông thường, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng xảy ra khi:

  • Hợp đồng bị hủy bỏ.
  • Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng.
  • Hợp đồng vô hiệu.

Miễn trách nhiệm đối với phạt vi phạm

Căn cứ Luật Thương mại năm 2005 thì bên vi phạm không phải chịu phạt vi phạm khi thuộc một trong các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm được quy định như sau:

2.1. Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận:

Dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự do thỏa thuận không trái pháp luật, các bên có thể đưa ra điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng. Điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng trong những trường hợp cụ thể do các bên dự liệu khi giao kết hợp đồng. 

Khi xảy ra trường hợp miễn trừ trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận thì bên vi phạm sẽ không phải chịu phạt vi phạm. Hay nói một cách khác, bên bị vi phạm được giải thoát khỏi trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng vì đưa ra được những cơ sở, căn cứ miễn trừ trách nhiệm chính là điều khoản miễn trừ trách nhiệm đã thỏa thuận.Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ, mặc dù các bên có thỏa thuận các trường hợp miễn trách nhiệm nhưng khi có hành vi vi phạm xảy ra thì không được miễn.  Ví dụ tại Khoản 3 Điều 405 DS 2015, trong trường hợp hợp đồng mẫu có các điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng mẫu thì điều khoản đó bị vô hiệu trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Hoặc tại Điểm a Khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, điều khoản loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng sẽ bị xem là không có hiệu lực. 

2.2. Xảy ra sự kiện bất khả kháng:

Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 quy định sự kiện bất khả kháng: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.

Để được xem là bất khả kháng thì một sự kiện phải thỏa mãn ba điều kiện sau:

  • Thứ nhất, sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện xảy ra một cách khách quan;
  • Thứ hai, sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện không thể lường trước được;
  • Thứ ba, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra mà hậu quả để lại hông thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi iện pháp cần thiết và hả năng cho phép;

Khi một sự kiện đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên thì nó sẽ được xem là sự kiện bất khả kháng mà các bên có thể dẫn chứng làm cơ sở cho việc miễn trừ trách nhiệm khi có hành vi vi phạm

2.3. Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia

Việc không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng theo thỏa thuận của hợp đồng là do hành vi sơ suất của bên có quyền thì bên có nghĩa vụ sẽ được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm. Khi một thương nhân làm cho bên kia không thể thực hiện được hợp đồng thì họ không có quyền viện dẫn vi phạm này để làm cơ sở yêu cầu phạt vi phạm. Và Luật Thương mại 2005 cũng đã ghi nhận điều này: “Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” là một trong các trường hợp miễn trách nhiệm được đưa ra ở Điểm c Khoản 1 Điều 294. Cần nói thêm, “lỗi” ở đây không chỉ là buộc bên vi phạm phải chứng minh lỗi của bên bị vi phạm mà còn là chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân của hành vi vi phạm và hệ quả của nó.

2.4. Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

Như vậy, nếu như các bên đã biết về việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm. Hơn nữa, quyết định của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi phạm hợp đồng.

Điều kiện để bên vi phạm được miễn trách nhiệm là phải chứng minh thuộc các trường hợp được miễn trách nhiệm nêu trên.

Bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra.

Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.

III. Căn cứ phạt vi phạm

Khi có hành vi vi phạm xảy ra, bên bị vi phạm không nhận được những gì đáng lẽ phải nhận được theo thỏa thuận trong hợp đồng. Từ đó, họ đưa ra các yêu cầu buộc bên vi phạm chịu phạt vi phạm.

Bên bị vi phạm muốn áp dụng chế tài phạt vi phạm phải chứng minh có đủ căn cứ để phạt vi phạm, bao gồm: Có thỏa thuận phạt vi phạm và có hành vi vi phạm hợp đồng.

Thỏa thuận phạt vi phạm có thể được chứng minh bằng cách dẫn chứng Hợp đồng, Phụ lục hợp đồng hoặc các chứng cứ khác ghi nhận sự thỏa thuận của các bên.

Về hành vi vi phạm, bên bị vi phạm cần chứng minh được mình đã không nhận được hoặc không nhận đủ, nhận đúng những gì đã thỏa thuận.

Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp ngoại lệ mà bên yêu cầu không cần phải chứng minh. Chẳng hạn như trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh yếu tố lỗi mà thương nhân (tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ) phải chứng minh mình không có lỗi gây thiệt hại (Điều 42 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Điểm a Khoản 1 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).

Mức phạt

Căn cứ Điều 301 Luật Thương mại 2005 quy định mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

Trừ trường hợp sau đây:

Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi vô ý của mình thì phải trả tiền phạt cho khách hàng. Mức phạt do các bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định.

Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi cố ý của mình thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho khách hàng trực tiếp yêu cầu giám định.

Tuy nhiên, đối với Luật Xây dựng 2014, mức phạt hợp đồng được quy định tại Khoản 1, Điều 146, đối với công trình xây dựng sử dụng vốn Nhà nước thì mức phạt hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm, các trường hợp còn lại do các bên thỏa thuận, pháp luật không giới hạn mức phạt tối đa. Do đó, trong trường hợp hợp đồng xây dựng có thỏa thuận mức phạt tối đa 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm thì Luật Xây dựng được áp dụng.

Tiền lãi do chậm thanh toán

Phần lớn các loại hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng đều có nội dung về nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền.

Tại Điều 357 và Điều 468 của BLDS 2015 quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo đó mức lãi suất sẽ do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 20%/năm của khoản tiền chậm trả (trừ trường hợp có quy định khác), nếu hai bên không có thỏa thuận thì mức lãi suất bằng một nửa so với lãi suất trần nếu hai bên thỏa thuận được, tức là 10%/năm của khoản tiền chậm trả.

Tại Điều 306 Luật Thương mại 2005 cũng có quy định về vấn đề này: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Từ những quy định trên, chúng ta nhận thấy rằng tiền lãi chậm thanh toán mang bản chất của chế tài phạt vi phạm nhưng không có thoả thuận vẫn có thể áp dụng được.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ hợp đồng này càng diễn ra phức tạp. Điều này cũng có nghĩa các vi phạm hợp đồng ngày càng phổ biến. Từ đó, việc quy định chi tiết các biện pháp áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp đồng là thực sự cần thiết. Tuy mục đích của hợp đồng là nhằm thỏa mãn các lợi ích mà các bên mong muốn khi giao kết nhưng vì nhiều lý do mà các lợi ích này không đạt được, một trong những lý do đó là do có hành vi cố ý vi phạm hợp đồng nhằm mưu lợi và xâm hại lợi ích của nhau. Vậy nên, chế tài phạt vi phạm vừa là chế tài nhằm khắc phục thiệt hại của bên bị vi phạm vừa là chế tài nhằm hạn chế sự vi phạm của mỗi chủ thể trong hoạt động kinh doanh thương mại.

Lê Hiền