Quy định về phạt vi phạm hợp đồng

Thông thường, khi soạn thảo hợp đồng chúng ta không thể bỏ sót điều khoản quy định về phạt vi phạm hợp đồng. Đây là điều khoản quan trọng để đảm bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên.

Căn cứ pháp lý:

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Luật Thương mại năm 2005;
  • Luật Xây dựng năm 2014;
  • Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
Quy định về phạt vi phạm hợp đồng
Quy định về phạt vi phạm hợp đồng

Phạt vi phạm là gì?

  • Khái niệm

Căn cứ Khoản 1 Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”.

Theo Điều 300 Luật Thương mại 2005: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này”.

Như vậy, phạt vi phạm không phải là điều khoản đương nhiên được công nhận trừ khi được hai bên thỏa thuận. Nếu không được thỏa thuận rõ ràng về việc phạt vi phạm thì khi một bên vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm sẽ không được nhận số tiền bị vi phạm. Phạt vi phạm là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, biện pháp ngăn ngừa hành vi vi phạm và một phần nào đó là biện pháp khắc phục hậu quả, bù đắp thiệt hại

  • Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại

Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.

Khi nào bị phạt do vi phạm

Điều kiện phạt vi phạm

Khi có thỏa thuận phạt vi phạm và có hành vi vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm. Thông thường, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng xảy ra khi:

  • Hợp đồng bị hủy bỏ.
  • Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng.
  • Hợp đồng vô hiệu.

Miễn trách nhiệm đối với phạt vi phạm

Căn cứ Luật Thương mại năm 2005 thì bên vi phạm không phải chịu phạt vi phạm khi thuộc một trong các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm được quy định như sau:

2.1. Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận:

Dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự do thỏa thuận không trái pháp luật, các bên có thể đưa ra điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng. Điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng trong những trường hợp cụ thể do các bên dự liệu khi giao kết hợp đồng. 

Khi xảy ra trường hợp miễn trừ trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận thì bên vi phạm sẽ không phải chịu phạt vi phạm. Hay nói một cách khác, bên bị vi phạm được giải thoát khỏi trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng vì đưa ra được những cơ sở, căn cứ miễn trừ trách nhiệm chính là điều khoản miễn trừ trách nhiệm đã thỏa thuận.Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ, mặc dù các bên có thỏa thuận các trường hợp miễn trách nhiệm nhưng khi có hành vi vi phạm xảy ra thì không được miễn.  Ví dụ tại Khoản 3 Điều 405 DS 2015, trong trường hợp hợp đồng mẫu có các điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng mẫu thì điều khoản đó bị vô hiệu trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Hoặc tại Điểm a Khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, điều khoản loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng sẽ bị xem là không có hiệu lực. 

2.2. Xảy ra sự kiện bất khả kháng:

Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 quy định sự kiện bất khả kháng: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.

Để được xem là bất khả kháng thì một sự kiện phải thỏa mãn ba điều kiện sau:

  • Thứ nhất, sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện xảy ra một cách khách quan;
  • Thứ hai, sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện không thể lường trước được;
  • Thứ ba, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra mà hậu quả để lại hông thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi iện pháp cần thiết và hả năng cho phép;

Khi một sự kiện đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên thì nó sẽ được xem là sự kiện bất khả kháng mà các bên có thể dẫn chứng làm cơ sở cho việc miễn trừ trách nhiệm khi có hành vi vi phạm

2.3. Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia

Việc không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng theo thỏa thuận của hợp đồng là do hành vi sơ suất của bên có quyền thì bên có nghĩa vụ sẽ được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm. Khi một thương nhân làm cho bên kia không thể thực hiện được hợp đồng thì họ không có quyền viện dẫn vi phạm này để làm cơ sở yêu cầu phạt vi phạm. Và Luật Thương mại 2005 cũng đã ghi nhận điều này: “Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” là một trong các trường hợp miễn trách nhiệm được đưa ra ở Điểm c Khoản 1 Điều 294. Cần nói thêm, “lỗi” ở đây không chỉ là buộc bên vi phạm phải chứng minh lỗi của bên bị vi phạm mà còn là chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân của hành vi vi phạm và hệ quả của nó.

2.4. Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

Như vậy, nếu như các bên đã biết về việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm. Hơn nữa, quyết định của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi phạm hợp đồng.

Điều kiện để bên vi phạm được miễn trách nhiệm là phải chứng minh thuộc các trường hợp được miễn trách nhiệm nêu trên.

Bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra.

Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.

III. Căn cứ phạt vi phạm

Khi có hành vi vi phạm xảy ra, bên bị vi phạm không nhận được những gì đáng lẽ phải nhận được theo thỏa thuận trong hợp đồng. Từ đó, họ đưa ra các yêu cầu buộc bên vi phạm chịu phạt vi phạm.

Bên bị vi phạm muốn áp dụng chế tài phạt vi phạm phải chứng minh có đủ căn cứ để phạt vi phạm, bao gồm: Có thỏa thuận phạt vi phạm và có hành vi vi phạm hợp đồng.

Thỏa thuận phạt vi phạm có thể được chứng minh bằng cách dẫn chứng Hợp đồng, Phụ lục hợp đồng hoặc các chứng cứ khác ghi nhận sự thỏa thuận của các bên.

Về hành vi vi phạm, bên bị vi phạm cần chứng minh được mình đã không nhận được hoặc không nhận đủ, nhận đúng những gì đã thỏa thuận.

Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp ngoại lệ mà bên yêu cầu không cần phải chứng minh. Chẳng hạn như trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh yếu tố lỗi mà thương nhân (tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ) phải chứng minh mình không có lỗi gây thiệt hại (Điều 42 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Điểm a Khoản 1 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).

Mức phạt

Căn cứ Điều 301 Luật Thương mại 2005 quy định mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

Trừ trường hợp sau đây:

Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi vô ý của mình thì phải trả tiền phạt cho khách hàng. Mức phạt do các bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định.

Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi cố ý của mình thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho khách hàng trực tiếp yêu cầu giám định.

Tuy nhiên, đối với Luật Xây dựng 2014, mức phạt hợp đồng được quy định tại Khoản 1, Điều 146, đối với công trình xây dựng sử dụng vốn Nhà nước thì mức phạt hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm, các trường hợp còn lại do các bên thỏa thuận, pháp luật không giới hạn mức phạt tối đa. Do đó, trong trường hợp hợp đồng xây dựng có thỏa thuận mức phạt tối đa 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm thì Luật Xây dựng được áp dụng.

Tiền lãi do chậm thanh toán

Phần lớn các loại hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng đều có nội dung về nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền.

Tại Điều 357 và Điều 468 của BLDS 2015 quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo đó mức lãi suất sẽ do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 20%/năm của khoản tiền chậm trả (trừ trường hợp có quy định khác), nếu hai bên không có thỏa thuận thì mức lãi suất bằng một nửa so với lãi suất trần nếu hai bên thỏa thuận được, tức là 10%/năm của khoản tiền chậm trả.

Tại Điều 306 Luật Thương mại 2005 cũng có quy định về vấn đề này: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Từ những quy định trên, chúng ta nhận thấy rằng tiền lãi chậm thanh toán mang bản chất của chế tài phạt vi phạm nhưng không có thoả thuận vẫn có thể áp dụng được.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ hợp đồng này càng diễn ra phức tạp. Điều này cũng có nghĩa các vi phạm hợp đồng ngày càng phổ biến. Từ đó, việc quy định chi tiết các biện pháp áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp đồng là thực sự cần thiết. Tuy mục đích của hợp đồng là nhằm thỏa mãn các lợi ích mà các bên mong muốn khi giao kết nhưng vì nhiều lý do mà các lợi ích này không đạt được, một trong những lý do đó là do có hành vi cố ý vi phạm hợp đồng nhằm mưu lợi và xâm hại lợi ích của nhau. Vậy nên, chế tài phạt vi phạm vừa là chế tài nhằm khắc phục thiệt hại của bên bị vi phạm vừa là chế tài nhằm hạn chế sự vi phạm của mỗi chủ thể trong hoạt động kinh doanh thương mại.

Lê Hiền